![Nợ công: Nhiều nước ASEAN có xu hướng giảm, Việt Nam tăng đều đặn](/upload/533/20171109/grab1510201764imf_wgch.png)
Nợ công của nhiều nước ASEAN có xu hướng giảm dần, trong khi của Việt Nam vẫn tăng đều đặn. Hai chuyên gia của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) là TS. Nguyễn Đức Thành (Viện trưởng VEPR) và Nguyễn Hồng Ngọc vừa công bố nghiên cứu “Đánh giá Luật Quản lý nợ công tại Việt nam và một số hàm ý chính sách”. Nhóm nghiên cứu VEPR cho biết tại Việt Nam, nợ công đang là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm trên các diễn đàn kinh tế gần đây. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, vay nợ có thể xem là một công cụ cần thiết để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư và khuyến khích phát triển sản xuất trong giai đoạn nền kinh tế còn có mức tích lũy thấp. “Tuy nhiên, nếu chúng ta lạm dụng việc vay nợ và sử dụng thiếu thận trọng nguồn tài chính này thì các khoản nợ sẽ thành một gánh nặng cho tương lai, khiến sự bền vững của nền kinh tế bị đe dọa”, nhóm nghiên cứu VEPR nhận định. Đáng lưu ý, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 2011. Cụ thể, chỉ trong vòng 5 năm từ năm 2011 đến năm 2015, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng khoảng 12,2 điểm phần trăm, từ 50% lên đến 62,2%. ![](/upload/533/20171109/grab1510201766nocong_xrck.png)
Tỷ trọng nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài Việt Nam từ 2011-2016 (%GDP). Tới cuối năm 2016, nợ công ước tính đã lên tới 63,7% GDP. Với tốc độ tăng liên tục khoảng 5% mỗi năm như trong giai đoạn 2011-2016, mức trần nợ công 65% GDP do Quốc hội đặt ra có thể sẽ bị phá vỡ trong thời gian tới. Dẫn số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm nghiên cứu VEPR cho biết, so với các quốc gia còn lại trong khu vực cũng như so với các nhóm quốc gia mới nổi và đang phát triển trên thế giới, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã gia tang mạnh mẽ, từ vị trí thấp nhất giai đoạn từ 2000 – 2005 vươn lên đứng đầu trong năm 2016 với nợ công ước tính lên tới 60,7% GDP. ![](/upload/533/20171109/grab1510201767he_qrea.png)
Tỷ lệ nợ công của Việt Nam và một số nước mới nổi/đang phát triển trên thế giới, từ 2000-2016 (%GDP). So với các quốc gia còn lại trong khu vực ASEAN cũng như so với các nhóm quốc gia mới nổi và đang phát triển trên thế giới, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã gia tăng mạnh mẽ, từ vị trí thấp nhất giai đoạn từ 2000-2005 vươn lên đứng đầu trong năm 2016. Cụ thể, nếu so riêng trong khu vực, tỷ lệ nợ công trên GDP Việt Nam năm 2016 cao hơn Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Trong khi đó, giai đoạn năm 2000 thì thấp hơn tất cả quốc gia nói trên. Đáng chú ý, nợ công của nhiều nước ASEAN có xu hướng giảm dần, trong khi của Việt Nam vẫn tăng đều đặn. ![](/upload/533/20171109/grab1510201768imf_wgch.png)
Đáng lưu ý, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc thâm hụt ngân sách cao triền miên, một phần bắt nguồn từ sự kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn vay, đặc biệt ở khu vực kinh tế nhà nước, gây ra những thách thức rất lớn đối với việc kiểm soát nợ công trong giới hạn cho phép. ![](/upload/533/20171109/grab1510201769nc_rjac.png)
Tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng thâm hụt ngân sách, 2000-2016 (% GDP). Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách tạo ra sức ép đối với nguồn trả nợ trong ngân sách nhà nước, dẫn đến tình trạng đảo nợ ngày càng gia tăng. Theo Chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2016-2018 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối tháng Tư vừa qua, lượng vay để trả nợ gốc trong năm 2016 là 132,4 nghìn tỷ đồng, năm 2017 khoảng 144 nghìn tỷ đồng. Với chiều hướng gia tăng quy mô và tính rủi ro của nợ công như hiện nay, quản lý nợ công đang là một trong những vấn đề được quan tâm nhất đối với các nhà hoạch định chính sách, giới học thuật cũng như dư luận tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Dự thảo Luật Quản lý nợ công sửa đổi đã được xây dựng nhằm bổ sung, điều chỉnh và khắc phục các hạn chế của Luật hiện hành. Nhóm nghiên cứu VEPR cho rằng, cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa Luật quản lý nợ công với Luật ngân sách nhà nước (ban hành vào năm 2015, có hiệu lực bắt đầu từ năm 2017) và Luật đầu tư công (ban hành vào năm 2014, có hiệu lực từ năm 2015), bên cạnh đó cũng cần đảm bảo sự liên hệ chặt chẽ của luật này với Luật Doanh nghiệp (trong đó bao gồm các DNNN) và Luật Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, cần cải thiện việc thống kê, quản lý và công bố thông tin về nợ công theo hướng tăng tính công khai, minh bạch, tính hệ thống, đầy đủ, tính trung thực, khách quan, chính xác và tính cập nhật. Đặc biệt, cần quy định cụ thể về biểu mẫu báo cáo thống kê nợ công, thời hạn công bố thông tin và mức độ cập nhật của số liệu công bố, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quản lý và đánh giá về tình hình nợ công. Thông lệ tốt trên thế giới cho thấy khuôn khổ pháp lý nên quy định thẩm quyền quản lý nợ chỉ thuộc về một cơ quan, thường là một đơn vị thuộc Bộ Tài chính, nhằm tình trạng phân tán và tăng cường sự phối hợp trong quản lý nợ. Cụ thể, cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm giải trình nợ công từ khâu đàm phán, vay nợ, quản lý sử dụng nợ cho đến lên kế hoạch trả nợ, từ đó tăng tính thống nhất và hiệu quả trong quản lý nợ, tạo điều kiện giảm thủ tục hành chính và tinh giản bộ máy. Cuối cùng, đối với quản lý rủi ro bảo lãnh Chính phủ, cần có cơ chế theo dõi và hạn chế tối đa tình hình ngân sách phải trả nợ thay hoặc bảo lãnh nợ cho các khoản DNNN tự vay tự trả khi các doanh nghiệp này phá sản. Thực hiện các biện pháp siết bảo lãnh nợ và tăng tính công khai, minh bạch trong việc bảo lãnh nợ. Trong báo cáo Quốc hội ttại kỳ họp thứ 4 về tình hình nợ công, Chính phủ cho biết dự kiến cuối năm 2017 dư nợ công khoảng 3,13 triệu tỷ đồng, chiếm 62,6%GDP. Sang năm 2018, dư nợ công cuối năm 2018 ở mức khoảng 63,9% GDP, dư nợ chính phủ ở mức khoảng 52,5% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 47,6% GDP, nằm trong giới hạn cho phép. Để kiểm soát nợ công, Chính phủ cho hay đã triển khai đồng loạt các biện pháp tăng cường quản lý chặt chẽ, đảm bảo nợ công trong mức an toàn, trong đó có chủ trương tạm dừng xem xét cấp bảo lãnh cho các dự án mới. Chẳng hạn, năm 2016 chỉ cấp bảo lãnh Chính phủ cho 1 dự án đường dây truyền tải với tổng trị giá 170 triệu USD, giảm mạnh so với năm 2015; thẩm định chặt chẽ các dự án đăng ký sử dụng vốn vay, đặc biệt là các dự án vay mới,... “Việc trả nợ của Chính phủ được thực hiện chặt chẽ và đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và trả nợ vay về cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới các cam kết, góp phần củng cố mức tín nhiệm quốc gia”, báo cáo nêu rõ. N.MAI |