[SGTT - 31/01/2011 - Nguyễn Đức Thành]
Một tiến sĩ trẻ đứng đầu một trung tâm nghiên cứu gồm nhiều trí thức
trẻ, “bàn quốc sự” bằng một góc nhìn khoa học: tìm kiếm một tư duy đổi
mới hiện nay là không đủ trong bối cảnh xã hội hiện đại, đa dạng và phức
tạp. Giới thiệu khái niệm “phân hữu tri thức”, Nguyễn Đức Thành cho
rằng cần phải tạo lập cơ chế để tư duy mới liên tục phát sinh cạnh tranh
với nhau và cùng phát triển.
SGTT.VN - Nhiều người so sánh giai đoạn hiện nay với
giai đoạn đổi mới trước đây, và chờ đợi những tư duy đột phá để nền kinh
tế bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên, lối tư duy mong đợi một “tư
duy đổi mới”, dù tư duy ấy có thể gồm một bộ ý tưởng được suy nghĩ, cân
nhắc kỹ càng, có vẻ vẫn thuộc về lối tư duy cũ.
Đại biểu đến dự Đại hội Đảng lần thứ XI từ ngày 12 - 19.1.2011. |
Điều này có lẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của giai đoạn
Đổi mới trước đây. Trong bối cảnh trước khi có cải cách kinh tế ở Việt
Nam, nền kinh tế nước ta tương đối đơn giản, tập trung và tuyến tính.
Đến thời điểm này, nền kinh tế đã trở nên phức tạp, phân tán, đa dạng
hơn rất nhiều do kết quả của quá trình thị trường hoá và quốc tế hoá
liên tục trong hai thập kỷ qua. Vì thế, để tiếp tục cải cách nền kinh tế
lúc này, có lẽ cần một cách đặt vấn đề khác.
Vì bản chất của môi trường kinh tế và xã hội hiện nay
đã mang khá đậm tính chất của nền kinh tế thị trường, với luồng thông
tin cùng sự kiện diễn biến với quy mô lớn, liên tục và phức tạp, nên sự
đổi mới cũng cần phải diễn ra liên tục, chứ không thể diễn ra theo kiểu
một lần như trước đây nữa. Do đó, vấn đề không phải đi trả lời câu hỏi
“tư duy mới là gì?” mà là làm thế nào để các tư duy mới liên tục được
sản sinh.
Với cách đặt vấn đề như vậy, có lẽ sẽ phải hình thành
một thói quen mới, đó là việc quen dần và chấp nhận sự tiến bộ kinh tế –
xã hội sẽ đi theo những hướng không hoàn toàn như chúng ta tiên liệu
hoặc tin tưởng. Vì một đặc điểm quan trọng của sự đổi mới hay sáng tạo
thực sự, là người ta không dự báo được trước, hay nói cách khác, không
kế hoạch hoá được trước. Người ta chỉ có thể tạo nên cái cơ chế cho sự
sáng tạo xuất hiện, chứ không thể kế hoạch hoá cái gì sẽ được sáng tạo.
Từ phân công lao động đến phân hữu tri thức
Với cách tiếp cận như vậy, cần trở lại những nền tảng
tạo nên động lực sáng tạo, hay quá trình liên tục đổi mới tư duy, của
nhân loại trong giai đoạn kinh tế thị trường phát triển.
Trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường, tăng
trưởng kinh tế thế giới bắt đầu tăng tốc ở những nước công nghiệp hoá
đầu tiên, giải phóng mạnh mẽ các nguồn lực hữu hình, hiện hữu (vốn, lao
động, tài nguyên). Tâm điểm của quá trình này là sự phân công lao động
ngày càng tinh vi trong tổ chức xã hội loài người. Đây là đặc điểm xã
hội quan trọng được các nhà kinh tế đầu tiên, điển hình là Adam Smith,
phát hiện vào nửa sau thế kỷ 18. Nhưng đóng góp quan trọng thực sự của
các nhà kinh tế học tiền bối không phải chỉ là nhận ra sức mạnh ghê gớm
của quá trình phân công lao động, nhờ đó năng suất của xã hội tăng lên
mãnh liệt, mà họ nhận ra kinh tế thị trường là một cơ chế đặc biệt, ưu
việt duy nhất mà loài người từng biết, cho phép sự phân công lao động
được diễn ra một cách tự động và liên tục. Tiếp đó, họ nhanh chóng nhận
ra nền tảng của kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân về nguồn lực
(phương tiện sản xuất) và tự do sản xuất và trao đổi.
Trong thế kỷ 20, sau cuộc đại khủng hoảng 1929 – 1933,
nền kinh tế thị trường bị thách thức trên toàn thế giới. Những trào lưu
chống thị trường và nền văn minh của kinh tế thị trường trỗi dậy, lan
tràn và biến tướng thành làn sóng chống lại tự do cá nhân. Đặc điểm
chung của các trào lưu này là những nỗ lực nhằm xây dựng một xã hội và
nền kinh tế dựa trên sự kiểm soát, kế hoạch hoá đời sống con người và
các hoạt động kinh tế từ một nhà nước trung ương. Kết quả là các mô hình
xã hội này đều từ từ đi vào vòng xoáy sụp đổ, vì xã hội không có khả
năng tự đổi mới hoặc tự vệ trước những thách thức mới.
Trước thực tiễn này, giới tư tưởng thế giới dần phát
hiện ra một khía cạnh khác cao hơn rất nhiều của nền kinh tế thị trường.
Đó là vai trò của tri thức trong đời sống xã hội và sản xuất kinh tế.
Khi các nguồn lực trong các nền kinh tế thị trường của Adam Smith đã
được phát huy tối đa, điều cần thiết là sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực đó. Cùng một nhóm các nguồn lực, sản xuất ra tối đa sản phẩm,
hoặc ngược lại, cùng một yêu cầu về sản phẩm, sử dụng ít nguồn lực nhất
có thể. Đó chính là bản chất của cái gọi là “công nghệ”. Để có công
nghệ, không gì khác luôn phải có các cách thức sản xuất mới, hay kết hợp
nguồn lực theo cách mới hơn, hiệu quả hơn. Đó được gọi là quá trình
“sáng tạo”. Để có sự sáng tạo, cần phải có tri thức.
Bức tranh chung đã rất rõ ràng, tương tự như trong giai
đoạn ban đầu, vai trò của “sáng tạo” hay tri thức là như một nguồn lực.
Việc nghiên cứu tri thức cho thấy tri thức không phải là những vật thể
khách quan, có thể tập trung vào một tổ chức ở trung ương, mà thường tồn
tại một cách phân tán dưới những dạng đặc thù ở mỗi cá nhân, mỗi tổ
chức hay mỗi địa phương. Đó là các khái niệm “tri thức cá nhân”, “tri
thức ngầm ẩn”, “tri thức bản địa”, v.v… được phát triển trong khoa học
xã hội hiện đại.
Với bản chất phân tán của tri thức, hay tính hữu hạn
của tri thức nơi mỗi cá nhân hay tổ chức trong xã hội rộng lớn và ngày
càng phức tạp, người ta nhận ra vai trò của “phân công tri thức” hay
“phân hữu tri thức”, rất tương đồng với “phân công lao động” trong giai
đoạn sơ kỳ của kinh tế thị trường. Nếu quá trình phân công lao động cho
phép những lao động riêng lẻ kết hợp với nhau để tạo ra năng suất cao
cho toàn xã hội, thì quá trình phân hữu tri thức cho phép những tri thức
phân tán kết hợp với nhau để tạo ra một quá trình sáng tạo liên tục.
Một lần nữa, thị trường đóng vai trò như một cơ chế ưu
việt giúp quá trình phân hữu tri thức tồn tại và phát triển. Với những
thể chế hỗ trợ phù hợp, như bản quyền về ý tưởng hay sáng kiến, quyền tự
do tư duy và nghiên cứu, cho đến quyền tự do ngôn luận, phát biểu và
trao đổi, đã trở thành nền tảng để quá trình phân hữu tri thức diễn ra,
hệt như quyền tư hữu tài sản và tự do hoạt động sản xuất và trao đổi
đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của quá trình phân công lao
động.
Cơ chế cho tri thức liên tục sản sinh
Trong điều kiện Việt Nam, sự phát triển kinh tế thị
trường chỉ diễn ra trong vài chục năm gần đây, nhưng nó đã chứa đựng và
hấp thu cả lịch sử của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường lâu
dài của nhân loại. Nếu giờ đây chúng ta có thể nói về các giai đoạn của
quá trình cải cách kinh tế, hay sự nghiệp Đổi mới (vẫn đang diễn ra), từ
Đổi mới một đến Đổi mới hai, v.v… thì đó chính là những giai đoạn khác
nhau của nền kinh tế thị trường nói chung. Có thể có nhiều cách diễn
giải và diễn đạt về các giai đoạn đổi mới của chúng ta, cũng như những
nhu cầu thực sự thúc đẩy các giai đoạn đó. Ở đây, tôi muốn tiếp cận các
giai đoạn trên theo quan niệm về phân công lao động và phân hữu tri thức
như đã phân tích trên kia.
Với cách tiếp cận như vậy, thì có thể xem quá trình đổi
mới ở Việt Nam vào cuối thập niên 1980 là giai đoạn giải phóng các
nguồn lực đang bị kìm kẹp bởi các thể chế phi thị trường. Giai đoạn đó
sẽ mất dần động năng khi các nguồn lực đã được giải phóng ở mức cao
trong mối quan hệ của kinh tế thị trường. Sẽ đến giai đoạn Việt Nam cần
hội nhập ở mức cao hơn, ở đó cần có sự sáng tạo, tức là những cách thức
kết hợp các nguồn lực này theo một cách hiệu quả hơn, theo nghĩa rộng
nhất của từ “hiệu quả”. Và đó là giai đoạn Việt Nam cần đến vai trò thực
thụ của tri thức, trong toàn bộ quá trình vận động xã hội.
Điều này đòi hỏi tri thức cho sáng tạo phải được sản
sinh một cách bền vững. Nói cách khác, đã đến lúc chúng ta cần gây dựng
một cơ chế sản sinh ra tri thức một cách vững chắc và liên tục. Sẽ là
không đủ nếu chỉ tìm kiếm những giải pháp, những “tư duy mới” theo từng
giai đoạn, một cách tập trung. Thay vì theo giai đoạn, tri thức cần sản
sinh liên tục. Thay vì tập trung, tri thức cần phân tán.
Nói cách khác, tìm kiếm một tư duy đổi mới hiện nay là
không đủ trong bối cảnh xã hội hiện đại, đa dạng và phức tạp. Cái mà xã
hội Việt Nam cần là phải tạo lập được một cơ chế để trong đó các tư duy
mới liên tục được phát sinh, cạnh tranh với nhau và cùng phát triển. Có
thể nói, nhu cầu của chúng ta hiện nay là đổi mới cơ chế đổi mới tư duy.
Để làm được điều này, những thể chế và điều kiện cần
thiết cho quá trình phân hữu tri thức phải dần được tạo lập và bảo vệ. Ở
mức độ cao nhất, đó là việc tiếp tục xây dựng và kiện toàn một nhà nước
pháp quyền. Sự diễn giải luật pháp cần rõ ràng và dễ hiểu, môi trường
chính sách cần minh bạch và nhất quán. Chế độ bản quyền cần được tôn
trọng và tuân thủ một cách nghiêm túc. Tư tưởng và ngôn luận ngày càng
cởi mở hơn và hướng tới sự tự do và công khai trong tranh luận, tự do
nghiên cứu và phản biện chính sách. Trong quá trình bồi đắp và phát
triển những thể chế thân thiện với thị trường và tạo điều kiện cho tri
thức phát triển, các cơ quan truyền thông, các diễn đàn chung, các sự
kiện hội họp, và các tổ chức công dân có vai trò to lớn. Đây là con
đường mà Việt Nam không thể tránh khỏi trong quá trình hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu và tiến trình văn minh chung của nhân loại.
TS Nguyễn Đức Thành
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
(SGTT)
|