Ông có thể nhận định khái quát về tác động của những biến
động của thị trường tài chính - ngân hàng năm 2010 đối với mục tiêu
chung của nền kinh tế?
Năm
2010 thực sự là một năm nhiều biến động đối với thị trường tài chính -
ngân hàng, cũng là năm thử thách đối với các công cụ của chính sách tiền
tệ. Môi trường kinh tế - tài chính và tiền tệ đầy khó khăn, đặc biệt là
những vấn đề về thiếu hụt ngoại hối từ năm 2009 trở nên căng thẳng ngay
đầu năm 2010. Dư địa của chính sách tài khoá đã gần như cạn kiệt, vì
năm 2009 chúng ta theo đuổi gói kích thích kinh tế lớn, khiến năm 2010,
chúng ta chủ yếu trông mong ở chính sách tiền tệ.
Thêm vào đó, sự mất giá mạnh của đồng USD trên thế giới, cũng như diễn biến phức tạp ở Hy Lạp và Ireland
tích tụ thêm nhiều nỗi lo ngại về sự an toàn của hệ thống ngân hàng thế
giới. Ngoài ra, còn phải kể tới việc giá vàng thế giới tăng chưa từng
thấy. Đó là những đặc điểm chính tác động và định hình bức tranh thị
trường tài chính - ngân hàng của Việt Nam, thông qua đó tác động đến nền kinh tế.
Xin được đi vào chi tiết, theo ông, thực chất của diễn biến lãi suất năm 2010 là gì?
Lãi
suất đã không thể hạ trong năm 2010, dù ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã muốn hạ mức lãi suất chung của nền kinh tế để hỗ trợ
doanh nghiệp và Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc. Nỗi lo khan hiếm
USD và tình trạng “đô la hoá” leo thang cũng là nhân tố quan trọng không
cho phép NHNN hạ lãi suất VND, vì sẽ làm VND yếu đi tương đối so với
đồng USD và người dân, doanh nghiệp có khuynh hướng rời bỏ VND để chuyển
sang USD.
Theo
tôi, bản chất của việc lãi suất cao ở Việt Nam trong năm 2010 bắt nguồn
từ môi trường vĩ mô còn hàm chứa nhiều bất ổn, như nền kinh tế vẫn rất
nhạy cảm với nguy cơ lạm phát, hoạt động đầu tư vẫn chứa đựng nhiều rủi
ro. Lãi suất là thước đo cảm nhận của người dân và doanh nghiệp về những
hiện tượng này, do đó, mọi nỗ lực kìm nén lãi suất sẽ chỉ làm người dân
rút lui khỏi VND. Và như vậy, lạm phát sẽ xuất hiện không dưới hình
thức này thì hình thức khác, đồng thời là sự nóng lên của các thị trường
tài sản như vàng, ngoại hối và bất động sản.
Giá vàng và tỷ giá ngoại tệ, đặc biệt là tỷ giá VND/USD, cũng là điểm nóng không thể không nhắc tới?
Việt Nam
đã hội nhập sâu với thế giới, nên giá vàng trong nước hầu như liên
thông với giá vàng thế giới tính theo USD. Thêm vào đó, USD lại luôn có
khuynh hướng khan hiếm, nên bản thân giá USD trong nước luôn rình rập
tăng. Kết quả là, giá vàng quy đổi ra VND phải qua một lần tính theo
USD, đã tăng kép, vừa là sự tăng giá vàng theo USD, vừa là sự tăng giá
USD theo VND. Điều đó càng dễ kích hoạt tâm lý lo ngại của người dân,
khiến họ càng muốn ẩn náu vào vàng.
Việc
bình ổn giá vàng trong nước, theo tôi, trước hết phải phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế trên thế giới, nghĩa là sự ổn định trở lại của giá
vàng tính theo USD. Tiếp đó là phụ thuộc vào tình trạng kinh tế của ViệtNam,
cụ thể là thâm hụt thương mại. Nếu thâm hụt thương mại được cải thiện,
hoặc dòng vốn ngoại chảy vào nhiều hơn, thì tỷ giá sẽ hạ nhiệt và giúp
điều tiết giá vàng quy theo VND.
Liên
quan đến những vấn đề nóng vừa nêu, nhiều người đề cập vai trò quản lý,
điều hành của cơ quan chức năng. Theo ông, điểm được và chưa được trong
điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 là gì?
Điểm
được là cơ quan chức năng đã cố gắng chủ động trong nhiều tình huống.
Ví dụ, từ đầu năm, sau khi thấy việc yêu cầu các tập đoàn lớn bán USD
không mấy thành công, cơ quan điều hành đã chủ động hạ lãi suất USD để
ngoại tệ này bớt hấp dẫn, nhằm cải thiện cung USD trên thị trường. Một
nỗ lực nữa rất đáng hoan nghênh là việc tăng tỷ lệ an toàn cho hệ thống
ngân hàng trước những bấp bênh của nền tài chính toàn cầu và cả trong
nước.
Tuy
nhiên, có thể thấy, khi các chính sách được thi hành, những tác động
xảy đến trong các bước tiếp theo hoặc trên các khía cạnh khác dường như
không được chuẩn bị chu đáo để ứng phó với những công cụ thích hợp. Kết
quả là xuất hiện những xáo trộn trên thị trường không định trước được và
cơ quan chức năng lại bị rơi vào thế bị động trước hoàn cảnh mới.
Một
nguyên nhân nữa là các thông điệp chính sách còn chưa rõ ràng và thiếu
nhất quán, gây những đồn đoán, tạo “đất” cho những thông tin không chính
thống.
Vậy theo ông, năm 2011, thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam sẽ đối mặt với những thách thức nào và có những thuận lợi gì?
Theo
tôi, thách thức lớn nhất là chúng ta bước vào năm mới 2011 với dư địa
cho chính sách tiền tệ không còn nhiều, cũng như chúng ta đã bước vào
năm 2010 với dư địa rất hạn chế cho chính sách tài khoá. Điều ấy hàm ý
chúng ta phải dùng các chính sách thay thế để điều tiết nền kinh tế. Tôi
cho rằng, trong năm 2011, giới quản lý sẽ phải bỏ nhiều công sức để
điều tiết lãi suất, tiếp đó là lo toan với vấn đề tỷ giá.
Một
thuận lợi so với năm 2010, đó là năm 2011, chúng ta có thể hy vọng vào
một hệ thống chính sách nhất quán mới sẽ được ra đời và thực thi, rút
kinh nghiệm từ thực tế điều hành trong năm 2010. Môi trường kinh tế vĩ
mô có thể dễ dự báo hơn, mặc dù không có nghĩa là sẽ khá ngay lên trong
năm, nhưng đó cũng là điều tích cực.
(baodautu.vn)