[daibieunhandan.vn - 12/11/2010 - Nguyễn Đức Thành]
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách, trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Đức Thành cho rằng, khi nền kinh
tế có tiềm năng, có công nghệ cao thì tài nguyên là một lợi thế.
Trong trường hợp chưa có công nghệ, phải có chính sách rõ ràng đối
với việc sử dụng các nguồn lực tài nguyên và phải cam kết chặt chẽ trong
việc chuyển hóa tài nguyên thành công nghệ, vốn và đào tạo nguồn nhân
lực.
-
Một số ý kiến cho rằng, với tốc độ khai thác tài nguyên như của chúng
ta hiện nay sẽ có thể dẫn tới những hệ lụy, có phải không, thưa Giám
đốc?
- Tăng trưởng kinh tế dựa trên khai thác tài nguyên
là cách của một số nền kinh tế ban đầu, nhỏ và yếu, chưa có năng lực sản
xuất. Khi chúng ta có tiềm năng, thì tài nguyên là một lợi thế. Lịch sử
đã chứng minh những nền kinh tế nào không trong chuyển dịch những nguồn
lợi từ khai thác tài nguyên thành phát triển công nghệ, phát triển tri
thức thì sẽ không thể phát triển.
- Trong thời gian tới vấn đề này phải được giải quyết thế nào, thưa Ông?
- Có nhiều quốc gia đã thành công trong việc giải
quyết vấn đề này. Ví dụ như Malaysia, ban đầu cũng khai thác tài nguyên
thô là dầu mỏ. Nhưng, tài nguyên chỉ là tạm thời. Vì thế trong quỹ của
quốc gia thu được từ dầu khí những năm 60, 70 của nước này dành một phần
rất lớn để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Và đến nay họ đã
thành công. Malaysia trong khu vực Đông Nam Á là một trong những quốc
gia dẫn đầu về công nghệ. Đây là một bài học đơn giản mà chúng ta có thể
nhìn thấy. Chúng ta có thể tiếp tục khai thác tài nguyên trong trường
hợp chưa có công nghệ, nhưng buộc phải có những chính sách rất rõ ràng
trong việc sử dụng các nguồn lực tài nguyên đó, có cam kết chặt chẽ
trong việc chuyển hóa nó thành công nghệ và vốn con người.
- Hiện nay việc khai thác nguồn tài nguyên quốc
gia chỉ giao cho một số tập đoàn nhà nước. Nhưng, khai thác thế nào cho
hiệu quả, hợp lý và bền vững là bài toán không đơn giản?
- Một lượng tài nguyên khổng lồ được một số rất
ít các tập đoàn nhà nước khai thác dẫn đến 2 hậu quả. Thứ nhất là tạo
nên sự độc quyền. Khi độc quyền thì tự nó sẽ tích tụ nguồn lực tài
chính, cũng như nguồn lực chính trị và tự họ có khả năng thao túng chính
sách trong lĩnh vực đó. Điểm thứ hai, khi độc quyền thì các tín hiệu
của thị trường sẽ biến mất và việc đánh giá về những tập đoàn trở nên
rất khó khăn. Đó là hậu quả của độc quyền. Tuy nhiên với lĩnh vực tài
nguyên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nếu có sự phân cấp hay tự do
hóa quá nhanh sẽ gây ra sự phát triển manh mún và không kiểm soát.
- Vậy, việc quản lý giám sát sẽ phải đặt ra như thế nào, thưa Giám đốc?
- Bản thân việc giám sát không phải chỉ là ý chí và
mong muốn giám sát là được, mà phải tạo ra cơ chế để việc giám sát không
bị tê liệt và hiệu quả. Do chúng ta vẫn còn giữ tư duy cũ, tư duy mệnh
lệnh nên cho rằng càng tập trung vào ít đơn vị đầu mối thì càng dễ kiểm
soát nhưng thị trường không đơn giản như vậy và sự tiến hóa của xã hội
không đơn giản như vậy. Bản thân đơn vị độc quyền có thể thao túng về
chính sách và nó kiểm soát ngược lại việc kiểm soát nó. Chính vì thế mà
chúng ta phải giảm độc quyền, phải đưa sự cạnh tranh vào đây, cạnh tranh
lành mạnh và có kiểm soát.
- Xin cám ơn Giám đốc!
Tiến Đức thực hiện
(daibieunhandan.vn)
|